ANT Consultants and Lawyers

Giới thiệu về Công Ty Luật ANT Việt Nam

ANT Consultants and Lawyers

Tư vấn doanh nghiệp

ANT Consultants and Lawyers

Tư vấn đầu tư

ANT Consultants and Lawyers

Tư vấn các vụ việc dân sự

ANT Consultants and Lawyers

Tư vấn lao động

ANT Consultants and Lawyers

Tư vấn thương mại quốc tế

ANT Consultants and Lawyers

Tư vấn Bất động sản

ANT Consultants and Lawyers

Tư vấn sở hữu trí tuệ

Thứ Năm, 29 tháng 11, 2018

Lưu ý về tiền đóng Bảo hiểm xã hội của người lao động kể từ 01/1/2019

Kể từ 1/1/2019, tiền lương tối thiểu tính đóng Bảo hiểm xã hội (BHXH ) của người lao động như sau:
Vùng I: 4.180.000 đồng; Vùng II: 3.710.000 đồng; Vùng III: 3.250.000 đồng với, Vùng IV: 2.920.000 đồng.
Đối với người lao động đã qua học nghề, đào tạo nghề thì tiền lương tối thiểu tính đóng BHXH sẽ cao hơn ít nhất 7% so với mức lương nêu trên.

Bên cạnh đó, các khoản thu nhập không đóng BHXH không thay đổi, bao gồm:
Tiền thưởng theo quy định tại Điều 103 của Bộ luật lao động;
  • Tiền thưởng sáng kiến;
  • Tiền ăn giữa ca;
  • Khoản hỗ trợ xăng xe;
  • Khoản hỗ trợ điện thoại;
  • Khoản hỗ trợ đi lại;
  • Khoản hỗ trợ tiền nhà ở;
  • Khoản hỗ trợ tiền giữ trẻ;
  • Khoản hỗ trợ nuôi con nhỏ;
  • Hỗ trợ khi người lao động có thân nhân bị chết;
  • Hỗ trợ khi người lao động có người thân kết hôn;
  • Hỗ trợ khi sinh nhật của người lao động;
  • Trợ cấp cho người lao động gặp hoàn cảnh khó khăn khi bị tai nạn lao động;
  • Trợ cấp cho người lao động gặp hoàn cảnh khó khăn khi bị bệnh nghề nghiệp;
  • Các khoản hỗ trợ, trợ cấp khác ghi thành mục riêng trong hợp đồng lao động theo Khoản 11 Điều 4 của Nghị định 05/2015/NĐ-CP.
Đây là tiền lương và khoản chế độ phúc lợi không tính đóng BHXH của người lao động.
Doanh nghiệp cần nắm rõ các khoản này để có thể thực hiện đúng theo quy định của pháp luật trong năm 2019.
Với trình độ chuyên môn và kinh nghiệm làm việc của chúng tôi, ANT Lawyers có thể hỗ trợ tư vấn cho cá tổ chức, cá nhân liên quan đến pháp luật về bảo hiểm cho người lao động.

Thứ Tư, 28 tháng 11, 2018

Quy định về hòa giải trong Dự thảo Luật Hòa giải, đối thoại

Trong những năm qua, các vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính luôn có xu hướng tăng mạnh với tính chất ngày càng phức tạp. Khác với các nước phương Tây, ở Việt Nam giải quyết tranh chấp tại Tòa án là biện pháp được sử dụng phổ biến, các hình thức như thương lượng, hòa giải mặc dù có những ưu điểm nhất định nhưng ít được sử dụng. Thực tiễn hệ thống pháp luật Việt Nam cho thấy, quy định pháp luật về hòa giải, đối thoại đã được xây dựng tương đối căn bản trong quá trình cải cách tư pháp; trong đó, có nhiều quy định nhằm khuyến khích tăng cường hòa giải, đối thoại. Và gần đây, Dự thảo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án đã được công khai lấy ý kiến từ ngày 01/10/2018.

Để thực hiện hoạt động hòa giải, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định thành lập Trung tâm hòa giải, đối thoại chịu sự quản lý, kiểm tra, giám sát trực tiếp của Tòa án nơi đặt Trung tâm. Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án gồm các chức danh Giám đốc, Phó Giám đốc, Hòa giải viên, Đối thoại viên. Giám đốc Trung tâm là người đứng đầu Trung tâm được bổ nhiệm theo một trong hai hình thức: (1) Chánh án Tòa án nơi đặt Trung tâm phân công Thẩm phán theo chế độ luân phiên; hoặc (2) Các Hòa giải viên, Đối thoại viên bầu trong số các Hòa giải viên, Đối thoại viên của Trung tâm. Nguồn nhân lực được huy động để bổ nhiệm Hòa giải viên, Đối thoại viên được lựa chọn từ các đối tượng: (1) Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên và những người giữ chức danh tư pháp khác đã nghỉ hưu; (2) Cán bộ trung cấp, cao cấp nghỉ hưu; (3) Chuyên gia, nhà chuyên môn khác có ít nhất 10 năm kinh nghiệm trong các lĩnh vực công tác; và (4) Những người có uy tín cao trong xã hội khi đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn sau:
– Là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, trung thực, khách quan;
– Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao;
– Có kinh nghiệm và khả năng hòa giải, đối thoại;
– Tự nguyện thực hiện nhiệm vụ hòa giải, đối thoại.
Trong bối cảnh ngân sách Nhà nước eo hẹp, công việc của Tòa án quá tải thì việc huy động nguồn nhân lực không thuộc biên chế Nhà nước nhưng đáp ứng những yêu cầu nhất định để tham gia công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án là một trong những yêu cầu cần thiết tạo nên thành công của chế định này.
Phạm vi hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật này được thực hiện đối với các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính; yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính hoặc các mâu thuẫn, tranh chấp dân sự, hành chính do một hoặc các bên yêu cầu Tòa án hòa giải, đối thoại. Khi nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo quy định tại Điều 190 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 119 Luật Tố tụng hành chính, Tòa án chuyển đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Trung tâm Hòa giải, đối thoại tại Tòa án khi có đủ các điều kiện: (1) Vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; (2) Người khởi kiện, người yêu cầu không phản đối việc hoà giải, đối thoại trước khi Tòa án xem xét thụ lý theo trình tự tố tụng; (3) Vụ việc không thuộc trường hợp không được hòa giải, đối thoại theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, có hai hình thức hòa giải là hòa giải tiền tố tụng và hòa giải trong tố tụng. Hoạt động hòa giải, đối thoại theo pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật tố tụng hành chính không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Hòa giải, đối thoại. Do đó, hòa giải theo Luật này thuộc hình thức hòa giải tiền tố tụng không bắt buộc.
Sau khi tiến hành hòa giải, đối thoại, các bên có thể yêu cầu Tòa án công nhận hòa giải thành, đối thoại thoại thành. Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm (khoản 8 Điều 419 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015), nhưng có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nội dung này cũng được ghi nhận trong Dự thảo Luật Hòa giải, đối thoại. Kết quả hòa giải ngoài Tòa án được Tòa án ra quyết định công nhận sẽ được cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo pháp luật về thi hành án.
Từ kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn Việt Nam cho thấy, thực hiện hiệu quả cơ chế hòa giải, đối thoại có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính, cụ thể là góp phần tăng cường sự đồng thuận trong xã hội; giảm tải số lượng các vụ, việc phải đưa ra xét xử, khắc phục tình trạng quá tải án, tạo điều kiện để tòa án tập trung các nguồn lực nâng cao hơn nữa chất lượng xét xử. Qua triển khai thí điểm đề án, các Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Hải Phòng đã nhận được hơn 2.500 đơn khởi kiện và đưa ra hòa giải, đối thoại gần 2.400 đơn. Trong đó, có hơn 1.800 đơn đã được hòa giải, đối thoại thành công, đạt tỷ lệ 76,2%. Dự kiến, thời gian tới, ngoài Hải Phòng, đề án sẽ tiếp tục được mở rộng thí điểm tại Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Bắc Ninh, Khánh Hòa, Long An. Kết quả và kinh nghiệm của đề án sẽ là cơ sở quan trọng để xây dựng Dự án Luật Hòa giải, Đối thoại tại Tòa án theo quy định của Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ Ba, 27 tháng 11, 2018

Chuyển Nhượng Dự Án Bất Động Sản Cần Tuân Thủ Nguyên Tắc Nào?

Theo Đ 48, Luật Kinh Doanh Bất Động Sản, việc chuyển nhượng dự án bất động sản cần tuân thủ nguyên tắc sau:
Chủ đầu tư dự án bất động sản được chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án cho chủ đầu tư khác để tiếp tục đầu tư kinh doanh.

Việc chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản phải bảo đảm yêu cầu sau đây:
  • Không làm thay đổi mục tiêu của dự án;
  • Không làm thay đổi nội dung của dự án;
  • Bảo đảm quyền lợi của khách hàng và các bên có liên quan.
Việc chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc đầu tư đồng ý bằng văn bản. Chủ đầu tư nhận chuyển nhượng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc được đăng ký biến động vào giấy chứng nhận đã cấp cho chủ đầu tư chuyển nhượng theo quy định của pháp luật về đất đai.
Chủ đầu tư nhận chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản không phải làm lại hồ sơ dự án, quy hoạch xây dựng và Giấy phép xây dựng của dự án nếu không có thay đổi về nội dung chấp thuận chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư của dự án.
Nếu khách hàng quan tâm tới dịch vụ tư vấn pháp lý trong lĩnh vực bất động sản đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hãy gửi yêu cầu để luật sư của ANT Lawyers tư vấn.

Thứ Hai, 26 tháng 11, 2018

Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu

Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau; là một loại tài sản vô cùng có giá trị của người hoặc công ty thực hiện hoặc sản xuất và là một trong các đối tượng sở hữu công nghiệp được pháp luật bảo hộ. Đến nay, Việt Nam đã có một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về sở hữu trí tuệ. Nhãn hiệu luôn gắn liền với sản phẩm, dịch vụ và có vai trò quan trọng trong việc định hình nên giá trị của doanh nghiệp. Chính vì các giá trị mang lại mà nhãn hiệu luôn là một trong các đối tượng bị xâm phạm nhiều nhất nhằm mục đich làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ hàng hóa giữa các công ty với nhau. Điều này thực sự ảnh hưởng tiêu cực đến danh tiếng và hình ảnh doanh nghiệp sở hữu nhãn hiệu.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, các hành vi được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu thì bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, bao gồm:
– Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng với hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó;
– Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ;
– Sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng, tương tự hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ;
– Sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hóa, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hóa, dịch vụ không trùng, không tương tự và không liên quan tới hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan Tòa án, Thanh tra, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an, Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, được áp dụng như sau: việc áp dụng biện pháp dân sự, hình sự thuộc thẩm quyền của Tòa án; việc áp dụng biện pháp hành chính thuộc thẩm quyền của các cơ quan Thanh tra, Công an, Quản lý thị trường, Hải quan, Ủy ban nhân dân các cấp (giá trị xử phạt vi phạm hành chính có thể lên tới 500.000.000 đồng tùy theo hành vi và giá trị hàng hóa vi phạm); việc áp dụng biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ thuộc thẩm quyền của cơ quan Hải quan. Để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nói riêng, chủ sở hữu nhãn hiệu có thể xem xét xử lý theo một trong các biện pháp dân sự, hình sự, hành chính.
Khi chủ sở hữu nhận thấy có hành vi vi phạm, có thể nhờ trợ giúp của luật sư, các đại diện sở hữu trí tuệ để tư vấn thu thập chứng cứ và phối hợp với cơ quan chức năng xử lý các hành vi xâm phạm này.


Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2018

Một số nội dung quy định trong Luật cạnh tranh sửa đổi

Ngày 12/06/2018, Luật cạnh tranh số 23/2018/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 12/6/2018 thay thế cho Luật cạnh tranh 2004, gồm 10 Chương và 118 Điều. Luật 2018 đã bãi bỏ, sửa đổi và bổ sung nhiều nội dung mới phù hợp với thực tiễn qua 14 năm thi hành Luật Cạnh tranh 2004, quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đến thị trường Việt Nam; hành vi cạnh tranh không lành mạnh; tố tụng cạnh tranh; xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh; quản lý nhà nước về cạnh tranh.
Về quản lý nhà nước, Luật Cạnh tranh 2018 trao thẩm quyền cho Bộ Công Thương là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh (trước đây là Bộ Thương mại); quy định thành lập Ủy ban Cạnh tranh quốc gia trực thuộc Bộ Công thương trên cơ sở tổ chức lại các cơ quan quản lý cạnh tranh theo Luật Cạnh tranh 2004, bao gồm cơ quan quản lý cạnh tranh (Cục Cạnh tranh và Bảo vệ Người tiêu dùng) và Hội đồng Cạnh tranh. Ủy ban Cạnh tranh quốc gia là một cơ quan vừa thực thi quản lý nhà nước trong lĩnh vực cạnh tranh nhưng cũng đồng thời thực thi hoạt động tố tụng điều tra, xử lý các vụ việc hạn chế cạnh tranh.
Một trong những nội dung đáng chú ý, Luật Cạnh tranh 2018 cũng thay đổi cách tiếp cận đối với vấn đế tập trung kinh tế khi bãi bỏ  hành vi tập trung kinh tế ra khỏi khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh và thừa nhận tập trung kinh tế là quyền của doanh nghiệp. Do đó, luật không cấm tập trung kinh tế dựa trên mức thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan như quy định tại Luật Cạnh tranh 2004. Ngược lại, Luật Cạnh tranh 2018 chỉ quy định cấm doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế khi hành vi tập trung  kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường. Thị phần chỉ là một trong các yếu tố được xem xét khi quyết định đồng ý hay không đồng ý một vụ việc tập trung kinh tế. Ủy ban Cạnh tranh quốc gia chịu trách nhiệm đánh giá hành vi tập trung kinh tế dựa theo các tiêu chí quy định tại Điều 31, 32 Luật Cạnh tranh 2018. Tác động tiêu cực vá tích cực đồng thời được đưa ra đánh giá. Nếu vụ việc chỉ có tác động tích cực thì không cản trở. Nếu có cả tác động tích cực lẫn tiêu cực thì Ủy ban có thể vẫn cho phép tiến hành tập trung kinh tế, nhưng kèm theo một số điều kiện để hạn chế tác động tiêu cực. Đây là cách tiếp cận hoàn toàn mới so với quy định của Luật Cạnh tranh 2004 cấm toàn bộ tập trung kinh tế dựa trên thị phần.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 24 Luật Cạnh tranh, doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có sức mạnh thị trường đáng kể được xác định theo quy định tại Điều 26 của Luật Cạnh tranh 2018 hoặc có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan. Trước đây với  Luật Cạnh tranh 2004, khi xác định vị trí của một doanh nghiệp trên thị trường có phải là doanh  nghiệp có vị trí thống lĩnh hay không thì chỉ dựa vào tiêu chí thị phần trên thị trường chiếm trên 30%. Thực tế rất nhiều doanh nghiệp trên thị trường có thị phần chưa tới 30% nhưng vẫn có một sức mạnh thị trường đáng kể và vẫn có thể can thiệp vào thị trường dưới nhiều hình thức. Do đó Luật Cạnh tranh 2018 đã bổ sung thêm yếu tố khác ngoài yếu tố thị phần để xác định doanh nghiệp và nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường, kể cả những doanh nghiệp có thị phần dưới 30% thì cơ quan cạnh tranh sẽ đánh giá xem rằng liệu doanh nghiệp có vị trí sức mạnh thị trường hay không. Pháp luật không cấm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hay thậm chí là vị trí độc quyền. Tuy nhiên nếu như doanh nghiệp lạm dụng vị trí đó để thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành manh thì hành vi đó sẽ bị cấm. Chính vì vậy việc xác định vị trí của doanh nghiệp và nhóm doanh nghiệp như thế nào trên thị trường là điều kiện tiên quyết để xem xét các hành vi cạnh tranh của họ có bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền bị cấm hay không.
Luât Cạnh tranh 2018 có hiệu lực từ ngày 01/07/2019.


Thứ Tư, 21 tháng 11, 2018

Điều kiện của tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản

Điều kiện của tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản là gì?

Căn cứ tại Điều 3 Nghị định 76/2015/NĐ-CP quy định điều kiện của tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản như sau:









I. Tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp hoặc hợp tác xã theo quy định của pháp luật về hợp tác xã (sau đây gọi chung là doanh nghiệp) và phải có vốn pháp định không được thấp hơn 20 tỷ đồng, trừ các trường hợp sau :
1. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua bất động sản quy mô nhỏ, không thường xuyên:
  • Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua bất động sản quy định tại Khoản 2 Điều 10 Luật  Kinh doanh bất động sản không phải thành lập doanh nghiệp kinh doanh bất động sản bao gồm:
  • Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua bất động sản mà không phải do đầu tư dự án bất động sản để kinh doanh và trường hợp hộ gia đình, cá nhân bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua bất động sản do đầu tư dự án bất động sản để kinh doanh nhưng dự án có tổng mức đầu tư dưới 20 tỷ đồng (không tính tiền sử dụng đất).
  • Tổ chức chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bán nhà, công trình xây dựng do phá sản, giải thể, chia tách.
  • Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (AMC), công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) và các tổ chức, cá nhân khác chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển nhượng dự án bất động sản, bán nhà, công trình xây dựng đang bảo lãnh, thế chấp để thu hồi nợ.
  • Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bán nhà, công trình xây dựng để xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án, của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi xử lý tranh chấp, khiếu nại, tố cáo.
  • Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đầu tư xây dựng nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua mà không phải thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về nhà ở.
  • Các cơ quan, tổ chức khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bán nhà, công trình xây dựng thuộc sở hữu Nhà nước theo quy định của pháp luật về quản lý tài sản công.
  • Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua bất động sản thuộc sở hữu của mình
2. Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ bất động sản quy định tại Chương IV Luật Kinh doanh bất động sản.
II. Doanh nghiệp kinh doanh bất động sản thuộc diện có vốn pháp định quy định tại Khoản 1 Điều này phải chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của số vốn pháp định quy định tại Khoản 1 Điều này phải chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của số vốn pháp định.

Hãy liên hệ công ty luật ANT Lawyers qua hòm thư điện tử luatsu@antlawyers.com hoặc gọi số Hotline để được tư vấn.

Thứ Ba, 20 tháng 11, 2018

Giải quyết tranh chấp phân chia tài sản chung của vợ chồng sau khi Ly hôn

Quan hệ hôn nhân và gia đình là một quan hệ pháp luật đặc biệt, tồn tại trong đó vừa là quan hệ tài sản vừa là quan hệ nhân thân, tình cảm. Khi xảy ra vấn đề tranh chấp, quan hệ hôn nhân và gia đình luôn là những tranh chấp phức tạp. Trong phạm vi bài viết này người viết bàn về tranh chấp tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn.

  1. Thời điểm phát sinh tranh chấp, xác định loại quan hệ và luật áp dụng.
Quan hệ hôn nhân và gia đình luôn bao gồm các quan hệ: quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng, quan hệ nhân thân giữa cha mẹ và con, quan hệ tài sản chung của vợ chồng. Thông thường khi giải quyết quan hệ hôn nhân và gia đình, Tòa án thường giải quyết cả ba quan hệ nói trên. Tuy nhiên, quan hệ hôn nhân và gia đình về bản chất cũng là một quan hệ dân sự, Tòa án chỉ giải quyết khi có yêu cầu của đương sự và tuyệt đối không giải quyết vượt quá yêu cầu của đương sự. Có những trường hợp, vợ, chồng chỉ yêu cầu giải quyết một hoặc hai trong ba quan hệ nêu trên. Quan hệ tài sản thường được các đương sự giải quyết sau cùng sau khi đã có bản án/quyết định về việc ly hôn. Việc tranh chấp tài sản chung sau đó được các đương sự khởi kiện thành một vụ án riêng.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011, tranh chấp tài sản sau khi ly hôn được xếp vào loại việc tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân. Xuất phát từ việc tranh chấp tài sản chung khi quan hệ vợ chồng không còn tồn tại nữa nên pháp luật xác định đây là một quan hệ dân sự, tài sản được xác định là tài sản chung giữa các đồng chủ sở hữu, việc phân chia tài sản chung áp dụng theo quy định của Bộ luật dân sự về tài sản chung.
Đến Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã thay đổi quan điểm của nhà làm luật, xác định quan hệ tranh chấp phân chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn thuộc loại quan hệ tranh chấp hôn nhân và gia đình, việc phân chia tài sản chung được áp dụng các nguyên tắc theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình (Luật HNGĐ). Đồng thời, BLTTDS 2015 cũng xác định tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa chuyên trách Tòa gia đình và người chưa thành niên.
Do đó, khi phát sinh quan hệ tranh chấp phân chia tài sản sau khi ly hôn Tòa án phải xác định vụ án thuộc loại tranh chấp hôn nhân và gia đình, áp dụng nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng quy định tại Luật HNGĐ, không được coi là tranh chấp dân sự.
2. Một số vấn đề khi giải quyết tranh chấp phân chia tài sản sau khi ly hôn.
 Tài sản là bất động sản nhưng chỉ đứng tên một người.
Theo quy định chung của pháp luật, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử thì trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu/quyền sử dụng (GCN) phải có tên tất cả các đồng chủ sở hữu. Đối với tài sản chung của vợ chồng cũng vậy, GCN phải có tên cả vợ và chồng. Tuy nhiên trên thực tế xảy ra rất nhiều trường hợp GCN chỉ đứng tên vợ hoặc đứng tên chồng vì nhiều lý do. Khi xảy ra tranh chấp sẽ rất phức tạp, bởi bên có tên trên GCN cho rằng đó là tài sản riêng mà không phải là tài sản chung.
Để giải quyết tranh chấp, chúng ta phải quan tâm đến các vấn đề sau
  • Thời điểm hình thành tài sản: theo quy định của Luật HNGĐ, nếu vợ chồng không có thỏa thuận khác về chế độ tài sản chung, các tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Thời kỳ hôn nhân là thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng hợp pháp, được tính từ thời điểm đăng ký kết hôn cho đến thời điểm chấm dứt hôn nhân.
Như vậy, nếu bất động sản được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân luôn được coi là tài sản chung của vợ chồng ngay cả khi chỉ đứng tên một người. Trường hợp bất động sản được tạo lập trước hoặc sau thời kỳ hôn nhân và chỉ đứng tên một người thì được xác định là tài sản riêng của người đó.
  • Nguồn gốc của việc hình thành tài sản: tức là đi tìm nguồn gốc của số tiền dùng để mua bất động sản. Luật HNGĐ xác định “tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ/chồng là tài sản riêng của vợ/chồng”. Nghĩa là, vợ/chồng sử dụng tiền là tài sản riêng của mình để mua tài sản trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được mua đó được coi là tài sản của người vợ/chồng mà không được coi là tài sản chung được hình thành trong thời kỳ hôn nhân.
Nếu bất động sản được vợ/chồng mua bằng tài sản riêng của mình, chỉ đứng tên của người đó, thì được xác định là tài sản riêng. Tuy nhiên việc chứng minh là tài sản riêng sẽ gặp rất nhiều khó khăn bởi tiền là tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu và rất khó xác định thời điểm hình thành.
  • Luật HNGĐ xác định: “trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ/chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”. Khi một bên vợ/chồng cho rằng tài sản đang đứng tên mình là tài sản riêng của mình thì người đó có nghĩa vụ chứng minh, người yêu cầu xác định là tài sản chung không bắt buộc phải chứng minh. Nếu không chứng minh được là tài sản riêng, thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Tài sản của vợ/chồng được thừa kế theo pháp luật.
Trong thời kỳ hôn nhân, người vợ hoặc người chồng là người thuộc hàng thừa kế và được chia di sản theo pháp luật. Sau đó, người vợ/chồng được hưởng thừa kế mặc dù không có văn bản thỏa thuận sáp nhật tài sản được thừa kế vào khối tài sản chung nhưng cả hai vợ chồng đều cùng nhau sử dụng. Khi phát sinh tranh chấp, một bên cho rằng đó là tài sản chung và yêu cầu được chia tài sản.
Luật HNGĐ xác định, việc nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng phải được lập thành văn bản, việc cùng sử dụng tài sản không có ý nghĩa chứng minh tài sản chung.
Thừa kế theo pháp luật luôn là thừa kế riêng của người vợ/chồng nằm trong hàng thừa kế, tài sản đươc thừa kế theo pháp luật luôn là tài sản riêng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Do vậy, tài sản có tranh chấp phải được xác định là tài sản riêng của người được thừa kế.
Hãy liên hệ công ty luật ANT Lawyers qua hòm thư điện tử luatsu@antlawyers.com hoặc gọi số Hotline để được tư vấn.

Việt Nam phê duyệt tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership – CPTPP), tiền thân là Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement – TPP) gồm 11 nước: New Zealand, Canada, Nhật Bản, Mexico, Singapore, Brunei, Chile, Malaysia, Peru, Australia và Việt Nam. Hiệp định được ký kết vào ngày 08/3/2018 theo giờ địa phương tại Santiago, Chile.

TPP ban đầu từng được kỳ vọng tạo ra khối tự do thương mại lớn nhất toàn cầu với sự tham gia của Mỹ. Tuy nhiên sau khi Tổng thống Donald Trump lên nắm quyền đã rút Mỹ khỏi Hiệp định, các thành viên còn lại phải tái đàm phán để thành lập CPTPP. 11 nước tham gia CPTPP còn lại có tổng giá trị GDP khoảng 10.000 tỷ USD, khoảng 13,5% GDP toàn cầu.
Hiệp định này sẽ góp phần thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường lớn như Nhật Bản, Australia, Canada, Mexico cũng như thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành, lĩnh vực mà Việt Nam đang có nhu cầu phát triển; giúp Việt Nam phát triển thương mại với các nước như Canada, Mexico hay Peru – các nước chưa ký hiệp định thương mại tự do với Việt Nam. Một trong những cam kết trong CPTPP, đó là cam kết mạnh mẽ trong việc cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa. Theo đó, các nước tham gia CPTPP đồng ý xóa bỏ cho các nước thành viên tham gia gần như toàn bộ thuế nhập khẩu theo lộ trình, 100% dòng thuế đối với tất cả hàng hóa sẽ về 0% theo lộ trình 7 năm, nhưng với Việt Nam được kéo dài từ 7-10 năm. Tham gia CPTPP, Việt Nam không chỉ cam kết mở cửa thị trường, gỡ bỏ hàng rào thuế quan, tiếp tục tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại, mà còn tiếp tục công khai và minh bạch hóa quản lý nhà nước về phát triển thị trường. Các lĩnh vực, ngành hàng được hưởng lợi nhiều nhất và trực tiếp từ CPTPP có thể kể đến như: dệt may, da giày, chế biến thực phẩm, đồ uống, bánh kẹo, thuốc lá, rượu bia,…
Bên cạnh đó, CPTPP không chỉ đề cập tới các lĩnh vực truyền thống như cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa, mở cửa thị trường dịch vụ, sở hữu trí tuệ,… mà còn quy định những vấn đề mới như lao động, môi trường, mua sắm của Chính phủ, doanh nghiệp Nhà nước,… Ngoài ra, Hiệp định CPTPP về cơ bản giữ nguyên nội dung của Hiệp định TPP nhưng do Mỹ rút lui nên cho phép các nước thành viên tạm hoãn một số ít các nghĩa vụ để bảo đảm sự cân bằng trong bối cảnh mới.
Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam trước hết cần nắm bắt các cam kết trong CPTPP để tìm được trong đó các xu hướng chính sách có lợi cho mình và chuẩn bị các kế hoạch xây dựng năng lực cạnh tranh, nâng cao uy tín về thương hiệu và chất lượng sản phẩm để đón đầu cho CPTPP.

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2018

Một số sửa đổi về đăng ký doanh nghiệp từ 10/10/2018

Nghị định 108/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 78/2015/NĐ-CP có hiệu lực từ 10/10/2018 đã quy định nhiều điểm mới về đăng ký doanh nghiệp. Bài viết này xin làm rõ một số thay đổi như sau:













Nghị định mới quy định làm rõ một số nội dung về thủ tục khi thực hiện đăng ký doanh nghiệp, nổi bật là quy định về không cần đóng dấu vào hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và làm rõ việc văn bản ủy quyền cho cá nhân thành lập doanh nghiệp không cần công chứng, chứng thực tại Khoản 1 và 2 Điều 1 Nghị định 108/2018/NĐ-CP. Do trước đây không có quy định về vấn đề này dẫn đến một số cơ quan để đảm hồ sơ hợp lệ đã yêu cầu đóng dấu trên hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và công chứng văn bản ủy quyền, điều này gây ra một số trở ngại và phiền phức khi thực hiện thủ tục đăng ký ký doanh nghiệp, với quy định mới này sẽ nhận được nhiều sự ủng hộ hơn và giải quyết được vấn đề vướng mắc thực tiễn.

Một quy định nữa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp đó là trước đây chỉ cho phép doanh nghiệp được lập địa điểm kinh doanh tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính hoặc đặt chi nhánh. Có nghĩa rằng muốn lập một địa điểm kinh doanh khác nơi đặt trụ sở, doanh nghiệp phải thực hiện hai thủ tục đó là thành lập chi nhánh và thành lập địa điểm kinh doanh, trong khi thủ tục và hồ sơ thành lập chi nhành phức tạp hơn thành lập địa điểm kinh doanh. Hiện nay, theo Nghị định 108/2018/NĐ-CP cho phép doanh nghiệp được lập địa điểm kinh doanh khác tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính hoặc đặt chi nhánh, tạo điều kiện doanh nghiệp mở rộng phạm vi kinh doanh đơn giản và tiết kiệm chi phí, các giao dịch phát sinh của địa điểm kinh doanh được đưa vào hạch toán theo công ty mẹ, do đó giảm tải công việc cho kế toán trong doanh nghiệp.


Thứ Năm, 15 tháng 11, 2018

Điều doanh nghiệp cần biết về giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa

Theo Nghị định 31/2018/NĐ – CP quy định chi tiết luật quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa “Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa là văn bản hoặc các hình thức có giá trị pháp lý tương đương do cơ quan, tổ chức thuộc nước, nhóm nước, hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hàng hóa cấp dựa trên quy định và yêu cầu liên quan về xuất xứ, chỉ rõ nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa đó.”
Chúng ta có thể hiểu Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) là giấy chứng nhận xuất xứ nguồn gốc hàng hóa do một quốc gia (nước xuất khẩu) cấp phát ra để xác nhận là hàng hóa do nước đó sản xuất ra và phân phối trên thị trường xuất khẩu theo quy tắc xuất xứ, nhằm tạo thuận lợi cho hàng hóa khi nhập khẩu vào một quốc gia khác (nước nhập khẩu) về mặt thuế quan. C/O là một chứng từ quan trọng trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa.
Tác dụng của CO
Ưu đãi thuế quan: xác định được xuất xứ của hàng hóa khiến có thể phân biệt đâu là hàng nhập khẩu được hưởng ưu đãi để áp dụng chế độ ưu đãi theo các thỏa thuận thương mại đã được ký kết giữa các quốc gia
Áp dụng thuế chống phá giá và trợ giá: Trong các trường hợp khi hàng hóa của một nước được phá giá tại thị trường nước khác, việc xác định được xuất xứ khiến các hành động chống phá giá và việc áp dụng thuế chống trợ giá trở nên khả thi
Thống kê thương mại và duy trì hệ thống hạn ngạch: Việc xác định xuất xứ khiến việc biên soạn các số liệu thống kê thương mại đối với một nước hoặc đối với một khu vực dễ dàng hơn. Trên cơ sở đó các cơ quan thương mại mới có thể duy trì hệ thống hạn ngạch – Xúc tiến thương mại.
Các loại C/O
C/O không ưu đãi: tức là C/O bình thường, nó xác nhận rằng xuất xứ của một sản phẩm cụ thể nào từ một nước nào đó.
C/O ưu đãi: là C/O cho phép sản phẩm được cắt giảm hoặc miễn thuế sang các nước mở rộng đặc quyền này. Ví dụ như: Ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), Chứng nhận ưu đãi thịnh vượng chung (CPC), Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT),…
Cơ quan có thẩm quyền cấp C/O
Bộ Công thương là cơ quan thực hiện cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu. Bộ Công thương trực tiếp cấp hoặc ủy quyền cho Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và các tổ chức khác thực hiện việc cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa.
Cũng theo quy định hiện hành, thực hiện Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, căn cứ quy định của nước nhập khẩu về tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa, Bộ Công Thương quy định tiêu chí lựa chọn thương nhân; quy trình, thủ tục tự chứng nhận xuất xứ; nghĩa vụ và trách nhiệm của thương nhân tự chứng nhận xuất xứ; cơ chế kiểm tra, xác minh việc tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu của thương nhân và chế tài xử lý vi phạm.
Quy trình xin cấp C/O
Khi đăng ký cấp C/O lần đầu thì thương nhân phải có một bước đăng ký hồ sơ thương nhân với cơ quan, tổ chức cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa.
Hồ sơ xin cấp C/O gồm:
– Đơn đề nghị cấp C/O đã được khai hoàn chỉnh, hợp lệ;
– Mẫu C/O đã được khai hoàn chỉnh bao gồm một (01) bản gốc và ba (03) bản sao. Bản gốc và một bản sao sẽ được Người xuất khẩu gửi cho Người nhập khẩu để nộp cho cơ quan hải quan tại cảng hoặc địa điểm nhập khẩu. Bản sao thứ hai sẽ do Tổ chức cấp C/O lưu. Bản sao còn lại sẽ do Người xuất khẩu giữ. Trong trường hợp do yêu cầu của nước nhập khẩu, Người đề nghị cấp C/O có thể đề nghị Tổ chức cấp C/O cấp nhiều hơn ba (03) bản sao của C/O;
– Tờ khai hải quan xuất khẩu đã làm thủ tục hải quan (bản sao có chữ ký của người có thẩm quyền và dấu “sao y bản chính“), trừ các trường hợp hàng xuất khẩu không phải khai báo tờ khai hải quan xuất khẩu theo qui định của pháp luật. Trong trường hợp có lý do chính đáng Người đề nghị cấp C/O có thể nộp sau chứng từ này nhưng không quá ba mươi (30) ngày kể từ ngày cấp C/O;
Nếu xét thấy cần thiết, Tổ chức cấp C/O có thể yêu cầu Người đề nghị cấp C/O cung cấp thêm các chứng từ liên quan đến sản phẩm xuất khẩu như: Tờ khai hải quan nhập khẩu nguyên, phụ liệu; giấy phép xuất khẩu; hợp đồng mua bán; hóa đơn giá trị gia tăng mua bán nguyên phụ liệu trong nước; mẫu nguyên, phụ liệu hoặc sản phẩm xuất khẩu; vận đơn đường biển; vận đơn đường không và các chứng từ khác để chứng minh xuất xứ của sản phẩm xuất khẩu;
Đối với các doanh nghiệp tham gia eCOSys, mọi chứng từ sẽ được thương nhân ký điện tử và truyền tự động tới các Tổ chức cấp C/O. Các Tổ chức cấp C/O căn cứ vào hồ sơ trên mạng để kiểm tra tính hợp lệ của thông tin và cấp C/O cho thương nhân khi nhận được bộ hồ sơ đầy đủ bằng giấy.
Trong thời hạn 6 giờ làm việc kể từ khi nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ dưới dạng điện tử, cơ quan, tổ chức cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa thông báo trên hệ thống kết quả xét duyệt hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa cho thương nhân;
Trong thời hạn 2 giờ làm việc kể từ khi nhận được đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa đã được khai hoàn chỉnh và hợp lệ dưới dạng bản giấy cơ quan, tổ chức cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa trả kết quả cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa dưới dạng bản giấy.


Thứ Ba, 13 tháng 11, 2018

Lùi xe trên đường cao tốc gây hậu quả nghiêm trọng sẽ bị xử lý như thế nào?

Tai nạn giao thông là một vấn nạn đã và đang được cả xã hội quan tâm và nỗ lực hạn chế. Các nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông có các lỗi vi phạm giao thông đường bộ, trong đó có lỗi lùi xe trên đường cao tốc gây hậu quả nghiêm trọng. Điển hình của lỗi này là vụ tai nạn nghiêm trọng trên đường cao tốc Thái Nguyên năm 2017 gây chấn động dư luận.
Lùi xe theo quy định tại điều 16, luật giao thông đường bộ năm 2008 thì khi lùi xe, người điều khiển phải quan sát phía sau, có tín hiệu cần thiết và chỉ khi nào thấy không nguy hiểm mới được lùi. Không được lùi xe ở khu vực cấm dừng, trên phần đường dành cho người đi bộ qua đường, nơi đường bộ giao nhau, đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt, nơi tầm nhìn bị che khuất, trong hầm đường bộ, đường cao tốc. Như vậy, hành vi lùi xe trên đường cao tốc là hành vi pháp luật cấm, nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo mức độ theo quy định của pháp luật.
            Theo quy định của nghị định 46/2016, cụ thể tại điểm h, khoản 4, điều 5 thì đối với hành vi lùi xe trên đường cao tốc sẽ bị phạt từ 800.000 đồng đến 1.200.000 đồng; hình phạt bổ sung là bị tước quyền sử dụng giấy phép lái xe từ 1 – 3 tháng.
Gây hậu quả nghiêm trọng trong vụ tai nạn giao thông là một trong các trường hợp sau:
  1. a) Làm chết một người;
  2. b) Gây tổn hại cho sức khỏe của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;
  3. c) Gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;
  4. d) Gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
      5. đ) Gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
      6. e) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.
Theo quy định của luật sửa đổi bộ luật hình sự năm 2017 thì : người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 1 năm đến 5 năm. Như vậy, đối với hành vi lùi xe trên đường cao tốc gây hậu quả nghiêm trọng có thể bị xử lý hình sự theo điều 260, luật sửa đổi bộ luật hình sự năm 2017.
Để giảm thiểu hậu quả đáng tiếc xảy ra, mỗi tài xế, mỗi người tham gia giao thông cần ý thức chấp hành luật giao thông đường bộ cao hơn nữa. Hãy chung tay vì một Việt Nam tốt đẹp hơn!

Lùi xe trên đường cao tốc gây hậu quả nghiêm trọng sẽ bị xử lý như thế nào?

Tai nạn giao thông là một vấn nạn đã và đang được cả xã hội quan tâm và nỗ lực hạn chế. Các nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông có các lỗi vi phạm giao thông đường bộ, trong đó có lỗi lùi xe trên đường cao tốc gây hậu quả nghiêm trọng. Điển hình của lỗi này là vụ tai nạn nghiêm trọng trên đường cao tốc Thái Nguyên năm 2017 gây chấn động dư luận.
Lùi xe theo quy định tại điều 16, luật giao thông đường bộ năm 2008 thì khi lùi xe, người điều khiển phải quan sát phía sau, có tín hiệu cần thiết và chỉ khi nào thấy không nguy hiểm mới được lùi. Không được lùi xe ở khu vực cấm dừng, trên phần đường dành cho người đi bộ qua đường, nơi đường bộ giao nhau, đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt, nơi tầm nhìn bị che khuất, trong hầm đường bộ, đường cao tốc. Như vậy, hành vi lùi xe trên đường cao tốc là hành vi pháp luật cấm, nếu vi phạm sẽ bị xử lý theo mức độ theo quy định của pháp luật.
            Theo quy định của nghị định 46/2016, cụ thể tại điểm h, khoản 4, điều 5 thì đối với hành vi lùi xe trên đường cao tốc sẽ bị phạt từ 800.000 đồng đến 1.200.000 đồng; hình phạt bổ sung là bị tước quyền sử dụng giấy phép lái xe từ 1 – 3 tháng.
Gây hậu quả nghiêm trọng trong vụ tai nạn giao thông là một trong các trường hợp sau:
  1. a) Làm chết một người;
  2. b) Gây tổn hại cho sức khỏe của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;
  3. c) Gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;
  4. d) Gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
      5. đ) Gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
      6. e) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.
Theo quy định của luật sửa đổi bộ luật hình sự năm 2017 thì : người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 1 năm đến 5 năm. Như vậy, đối với hành vi lùi xe trên đường cao tốc gây hậu quả nghiêm trọng có thể bị xử lý hình sự theo điều 260, luật sửa đổi bộ luật hình sự năm 2017.
Để giảm thiểu hậu quả đáng tiếc xảy ra, mỗi tài xế, mỗi người tham gia giao thông cần ý thức chấp hành luật giao thông đường bộ cao hơn nữa. Hãy chung tay vì một Việt Nam tốt đẹp hơn!

Thứ Hai, 12 tháng 11, 2018

Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật

Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là việc một trong hai bên gồm người lao động (NLĐ) hoặc người sử dụng lao động (NSDLĐ) có thể tự chấm dứt hợp đồng không cần có thỏa thuận với bên còn lại nhưng vẫn được pháp luật công nhận. Đơn phương chấm dứt hợp đồng chỉ được chấp nhận trong một số trường hợp luật định. Mặc dù đã có quy định về những trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động được pháp luật công nhận, nhưng cũng phải nhìn nhận một cách khách quan rằng vi phạm pháp luật lao động về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của NLĐ vẫn đang diễn ra phổ biến.

Theo quy định tại Điều 38 Bộ luật Lao động năm 2012, NLĐ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;
d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;
đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;
e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;
g) NLĐ bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.
Cùng với việc thuộc vào một trong các trường hợp trên, NLĐ ng phải báo cho NSDLĐ biết trước:
– Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g trên;
– Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ.
– Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho NSDLĐ tuỳ thuộc vào thời hạn do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định.
– NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho NSDLĐ biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường nghỉ thai sản.
Do vậy, nếu NLĐ nghỉ việc không có căn cứ luật định và không tuân thủ thủ tục báo trước cho NSDLĐ sẽ bị coi là nghỉ việc trái pháp luật và sẽ phải chịu hậu quả pháp lý quy định tại Điều 43 như sau:
– Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho NSDLĐ nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
– Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho NSDLĐ một khoản tiền tương ứng với tiền lương của NLĐ trong những ngày không báo trước.
– Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho NSDLĐ.
Hơn nữa, theo quy định tại Điều 49 Luật Việc làm 2013, NLĐ nghỉ việc trái pháp luật là một trong những căn cứ không được hưởng bảo hiểm thất nghiệp.

Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2018

Quy định về việc sử dụng hóa đơn điện tử

Việc sử dụng hóa đơn điện tử (HĐĐT) mang lại lợi ích cho cả 3 bên: người bán; người mua và cơ quan quản lý trong đó có CQT. Cụ thể, sử dụng hóa đơn điện tử giúp ngành thuế xây dựng cơ sở dữ liệu về hóa đơn. Chính vì lợi ích như vậy mà xu hướng sẽ là doanh nghiện khi sử dụng hóa đơn điện tử sẽ truyền dữ liệu về cho CQT để tạo nên một cơ sở dữ liệu về HĐĐT
HĐĐT là tập hợp các thông điệp dữ liệu điện tử về bán hàng hóa, dịch vụ gồm 2 loại: HĐĐT của doanh nghiệp và HĐĐT có mã xác thực của cơ quan thuế. Theo đó, HĐĐT có mã xác thực của cơ quan thuế là HĐĐT được cơ quan thuế cấp mã xác thực và số xác thực qua hệ thống xác thực hóa đơn của cơ quan thuế, hoặc của tổ chức T-Van. HĐĐT của doanh nghiệp là HĐĐT được khởi tạo, lập, xử lý trên hệ thống máy tính của tổ chức kinh doanh đã được cấp mã số thuế khi bán hàng hóa, dịch vụ và được lưu trữ trên máy tính của các bên theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.










Nhìn chung, HĐĐT trên thế giới đã được sử dụng từ lâu nhất là ở các quốc gia phát triển với điều kiện cơ sở hạ tầng thông tin và trình độ tin học phát triển. Thực tiễn áp dụng cho thấy sử dụng HĐĐT giảm thiểu chi phí chung toàn xã hội liên quan trực tiếp đến in ấn, lưu trữ và truyền tải cũng như mất mát hư hỏng hóa đơn.
Như vậy sau khi đọc xong bài viết thì  câu hỏi hóa đơn điện tử có bắt buộc không đã được giải đáp kĩ lưỡng. Hóa đơn điện tử là xu thế tất yếu của mọi doanh nghiệp, tổ chức. Doanh nghiệp nên tiến hành chuyển đổi hóa đơn truyền thống sang phương tiện hóa đơn hiện đại này để nâng cao lợi nhuận cũng như tiết kiệm thời gian và nhân lực.
Lộ trình chuyển đổi từ việc sử dụng hóa đơn tự in, hóa đơn giấy sang hóa đơn điện tử được thực hiện trong vòng 24 tháng, từ ngày 1/11/2018 đến 1/11/2020
Nghị định 119/2018/NĐ-CP quy định chậm nhất là ngày 1/11/2020 phải hoàn thành việc tổ chức thực hiện sử dụng hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong sử dụng hóa đơn khi bán hàng, cung cấp dịch vụ, Nghị định 119 đã đưa ra lộ trình chuyển đổi từ việc sử dụng hóa đơn tự in, hóa đơn giấy sang hóa đơn điện tử trong vòng 24 tháng, từ ngày 1/11/2018 đến 1/11/2020.
Theo đó, đối với những đối tượng thuộc trường hợp bắt buộc phải chuyển đổi sang sử dụng HĐĐT cần lưu ý những mốc thời gian sau đây:
*Từ ngày 01/11/2020:
Các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hộ, cá nhân kinh doanh phải hoàn thành xong việc chuyển đổi sang HĐĐT, HĐĐT có mã của cơ quan thuế theo quy định.
Cũng từ ngày này Nghị định 51/2010/NĐ-CP và Nghị định 04/2014/NĐ-CP hết hiệu lực thi hành.
*Từ ngày 01/11/2018 – ngày 31/10/2020:
– Trường hợp cơ quan thuế thông báo cơ sở kinh doanh chuyển đổi áp dụng HĐĐT có mã nhưng cơ sở kinh doanh chưa đủ điều kiện về công nghệ thông tin để áp dụng thì được tiếp tục sử dụng hóa đơn theo hình thức cũ nhưng phải gửi mẫu theo Phụ lục 03 và tờ khai thuế giá trị gia tăng đến cơ quan thuế.
– Cơ sở kinh doanh mới thành lập trong thời gian này nếu được cơ quan thuế yêu cầu sử dụng HĐĐT thì phải áp dụng HĐĐT. Trường hợp chưa đủ điều kiện để áp dụng HĐĐT thì được phép sử dụng Hóa đơn giấy theo quy định tại Nghị định 51/2010.
– Trường hợp doanh nghiệp đã đặt in; thông báo phát hành hóa đơn, hóa đơn in tự in hoặc đặt mua hóa đơn của cơ quan thuế trước ngày 01/11/2018 thì được tiếp tục sử dụng số hóa đơn đó đến ngày 31/10/2020 theo quy định của Nghị định 51/2010.
*Trước ngày 01/11/2018:
Doanh nghiệp đã thực hiện thông báo phát hành HĐĐT hoặc đăng ký sử dụng HĐĐT của cơ quan thuế trước ngày này thì vẫn được tiếp tục sử dụng